Page 259 - Địa chí Hà Đông
P. 259

LỊCH SỬ  PHẦN 2



            giáo dục Nho giáo khá phát triển. Dưới sự  đến lớp 3 gọi là lớp 5, lớp 4, lớp 3) . Số lượng
                                                                                               1
            cai trị của chính quyền thực dân, thập niên  học sinh 2 trường Tiểu học khoảng 100-120

            đầu thế kỷ XX, phong trào học chữ Quốc  học sinh. Mô hình 2 trường này được duy trì
            ngữ ở Hà Đông được phát động sâu rộng  đến trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945,
            với  các  hoạt  động  của  Đông  Kinh  nghĩa  có khoảng 20 lớp với khoảng 500-1.000 học

            thục (năm 1907), mà người đứng đầu là hiệu  sinh.
            trưởng  Lương  Văn  Can,  đã  thu  hút  đông        Nhìn chung, đại bộ phận con em nhân
            đảo các nhà nho yêu nước quanh vùng La  dân lao động không được đi học, dẫn đến
            Khê, Đại Mỗ... Đến năm 1917, chính quyền  hậu quả, ở các làng xã có từ 80 đến 90% dân
            thực dân chủ trương cải cách hệ thống giáo  số bị mù chữ , dân tỉnh lỵ có 55% nam và
                                                                           2
            dục bản xứ, xóa bỏ hoàn toàn giáo dục Nho  75% nữ không biết chữ .
                                                                                     3
            học, đồng thời, tiếp tục mở rộng hệ thống           Nhân  dân  thường  xuyên  phải  chịu  ốm
            giáo dục Pháp - Việt. Ở Hà Đông, mỗi vùng  đau, dịch bệnh, nguy hiểm nhất là dịch tả;

            (thường  là  hàng  tổng),  có  một  trường  sơ  tình trạng đau mắt đỏ phổ biến. Mặt khác,
            đẳng tiểu học. Người được theo học là con  nhiều người bị bệnh phong không được chữa
            em những gia đình khá giả. Nhiều làng có  trị tập trung, phải sống lay lắt trong sự kỳ thị
            nghề  thủ  công  phát  triển  như  Vạn  Phúc,  của cộng đồng. Phụ nữ sinh đẻ nhiều nhưng
            La Khê, La Cả, Đa Sỹ..., một số người dân  tỷ lệ tử vong của trẻ sơ sinh rất cao, dẫn đến

            quan  niệm:  “Không  cần  học,  chỉ  cốt  làm  tình trạng nhiều gia đình có sinh mà không
            nghề kiếm tiền”. Do vậy, không chỉ con nhà  có  “dưỡng”.  Phụ  nữ  khi  sinh  nở,  “bà  đỡ”
            nghèo mà ngay cả nhiều gia đình khá giả,  thường dùng liềm, dao nứa để cắt rốn. Người

            con cái cũng thất học. Điển hình như ở Vạn  dân bị bệnh chỉ trông chờ vào các thầy lang
            Phúc, 80% nhân dân lao động mù chữ, cả  vườn và cúng lễ, do đó, tỷ lệ tử vong cao và
            xã chỉ có 2 nhóm học tư với vài chục trẻ  tuổi thọ trung bình rất thấp. Nhà thương, nhà
            em con nhà giàu. Cả 3 xã Mai Lĩnh, Đồng  hộ sinh ở khu vực thị xã chủ yếu khám chữa
            Dương, Đồng Hoàng (thuộc phường Đồng  bệnh cho công chức, viên chức, binh lính và

            Mai  ngày  nay),  lúc  đó  chỉ  có  một  trường  những người dân khá giả. Một số hiệu thuốc
            tiểu học và một trường tư thục học đến lớp  Nam,  thuốc  Bắc  được  mở  trên  phố.  Mạng
            3. Khoảng năm 1917, chính quyền thực dân

            thành lập trên địa bàn thị xã 2 trường tiểu      1   Trường nam tiểu học địa điểm là trường Tiểu
            học công dành cho con em công chức và               học Nguyễn Trãi hiện nay; Trường nữ tiểu học
                                                                địa  điểm  là  trường Trung  học  cơ  sở  Nguyễn
            con em các nhà buôn ở Hà Đông học tập.              Trãi hiện nay.
            Trường nam tiểu học (từ lớp 1 đến lớp 5 và       2   Lịch sử Đảng bộ quận Hà Đông (1926-2010),
            được gọi theo tên cũ là lớp 5, lớp 4, lớp 3, lớp    Sđd, tr. 30.

            nhì, lớp nhất). Trường nữ tiểu học (từ lớp 1     3   Lịch sử Cách mạng của Đảng bộ và nhân dân
                                                                phường Quang Trung (1945-2000), Sđd, tr.30.



                                                                            địa chí hà đông          259
   254   255   256   257   258   259   260   261   262   263   264