Page 246 - Địa chí Hà Đông
P. 246

PHẦN 2  LỊCH SỬ



              Nhuệ) và Hà Cầu  (hữu ngạn sông Nhuệ),  xây dựng những công sở, trại lính, rạp chiếu
                                 1
              với diện tích khoảng 0,5km . Dân số năm  bóng,  nhà  thờ,  trường  học  phục  vụ  cho
                                            2
              1940 có khoảng 1.500 người ,phần đông là  chính sách cai trị, bóc lột trên địa bàn tỉnh.
                                            2
              công chức, binh lính và gia đình họ, một số  Bên kia phố Cửa Dinh, Bóp Kèn là các khu
              khác là chủ các hiệu buôn . Quốc lộ 6 chạy  dinh thự của Công sứ Pháp, Tổng đốc, trại
                                         (3)
              qua khu phố Hà Văn và Hà Cầu, đoạn qua  lính, nhà thương. Ở khu vực sân bay, nay là
              cầu Hà Đông (từ Hà Nội vào) được nhân  phố Bế Văn Đàn, phố Me, nay là phố Phan
              dân gọi là phố Cửa Dinh , tiếp đó được gọi  Đình Phùng và khu biệt thự của công chức
                                        4
              là phố Bóp Kèn , phố Bông Đỏ . Trong hai  cao cấp hầu hết là người Pháp.
                               5
                                               6
              khu phố, chỉ có khu Hà Cầu, từ đường phố            Đường Hà Nội - Hà Đông được rải đá
              Cửa Dinh vào tới chợ Hà Đông có các trục  (1907), xe điện nối tới cầu Trắng (1911). Từ
              phố  chính  chạy  song  song  với  nhau  như:  1897, thực dân Pháp bắt đầu cho xây dựng
              Phố Nguyễn Hữu Độ (nay là phố Lê Lợi),  bưu  cục  tại  Hà  Đông,  sau  đổi  thành  Bưu

              phố Trưng  Nhị,  phố Trưng Trắc,  phố  Gia  điện Hà Đông; có nhiệm vụ bảo đảm thông
              Long (nay là phố Bà Triệu). Một số đoạn  tin liên lạc như công văn giấy tờ, thư báo,
              phố khác chạy song song sông Nhuệ hoặc  tiếp đến là điện báo, điện thoại. Ban đầu chủ
              cắt  ngang  các  trục  phố  chính,  tạo  thành  sự là người Pháp, đến năm 1913 thay bằng
              những ô bàn cờ. Nơi đây được người Pháp  người Việt.

                                                                  Tại  Tỉnh  lỵ  Hà  Đông,  thực  dân  Pháp
              1   Tên gọi tỉnh lỵ là Hà Đông nên khi lập hai khu   không tổ chức cấp thị xã, tập trung củng cố
                  phố lấy thêm tên của hai địa phương Cầu Đơ và
                  Văn Quán để đặt tên gọi.                    bộ máy cấp tỉnh, đứng đầu là Công sứ, Phó
              2   Theo Lịch sử Cách mạng của Đảng bộ và nhân  Công sứ, do Toàn quyền Đông Dương chỉ
                  dân phường Quang Trung (1945-2000), trang   định. Chính quyền tay sai đứng đầu là Tổng
                  14 thì giai đoạn này, “dân cư chỉ khoảng trên   đốc.  Lực  lượng  cảnh  binh,  lính  khố  xanh
                  3.000 người”.
              3   Lịch sử Đảng bộ quận Hà Đông (1926-2010), tr.6.  được lập để bảo vệ chế độ cai trị. Năm 1898,
              4   Cửa Dinh là phố chính của tỉnh lỵ, nơi tập trung  thực dân Pháp lập Hội đồng hàng tỉnh thuộc
                  bộ máy thống trị đầu tỉnh của thực dân Pháp.   thẩm quyền Tòa án Hà Nội. Đến năm 1917,
                  Người Pháp đặt tên cho con đường này là đường
                  Cộng Hòa (Boulevard de la Ré publique). Tuy   Pháp lập Tòa án đệ nhị tỉnh Hà Đông, đặt
                  nhiên, người dân tự đặt tên là phố Cửa Dinh,  trụ sở tại tỉnh lỵ. Chánh án là quan Chánh án
                  nghĩa là dinh Thống sứ và dinh Tổng đốc. Ngày   Công sứ. Khi lập bộ máy cai trị ở Hà Đông,
                  nay là phố Quang Trung.                     thực dân Pháp lựa chọn, bổ nhiệm những
              5   Gọi là phố Bóp Kèn vì nơi đây có nhà lính tập
                  kèn đồng.                                   viên  công  sứ  Pháp,  quan  lại  người  Việt
              6   Phố Bông Đỏ hoặc Hoa Đỏ vì có nhiều cây gạo  có  tiếng  như:  Công  sứ  Hăng-ri  Phuốc-cơ,
                  bên đường, mùa hoa gạo đỏ rực rỡ. Cũng có   Công sứ Bơ-rít và Tổng đốc Hoàng Trọng
                  người nói vì đây là phố cô đầu, từ màu sắc son
                  phấn, quần áo của đào hát mà người ta gọi thế.  Phu. Trong đó, Công sứ Hăng-ri Phuốc-cơ


              246       địa chí hà đông
   241   242   243   244   245   246   247   248   249   250   251