Page 380 - Địa chí Hà Đông
P. 380

PHẦN 3  KINH TẾ



              có  tên  chung  là  Chiêm  (Chiêm,  Chiêm  di,  dần. Nhìn chung, năng suất lúa rất thấp, chỉ
              Chiêm vàng, Chiêm dự); hoặc là các giống  khoảng 60-70 kg/sào Bắc Bộ.

              Dậu, Dị, Dự, Gié (Dé)... Ngoài ra, Hà Đông          Bên cạnh sản xuất lúa gạo, dân cư các
              còn có một số giống lúa nếp, lúa hương như  làng còn trồng các loại cây hoa màu, cây
              Nếp  Câu.  Nếp  Câu  có  đặc  điểm:  cây  cao,  ăn quả và rau đậu thực phẩm, đồng thời với

              bông ngắn, dùng để thổi xôi, gói bánh trong  chăn nuôi gia súc, gia cầm, thả cá, đánh bắt
              các dịp giỗ chạp, lễ, Tết, cưới hỏi.            thủy hải sản, khai thác sản vật tự nhiên...
                 Trước năm 1954, kỹ thuật canh tác ở Hà  Song, toàn bộ các hoạt động kinh tế này chỉ
              Đông cũng như các vùng lân cận còn rất lạc  là các hoạt động phụ để tận dụng lao động
              hậu, song cũng khá kỳ công. Phương tiện  nông nhàn, bổ sung sản phẩm cho nhu cầu

              làm đất chủ yếu sử dụng thông qua sức kéo  lương thực và phục vụ nhu cầu tiêu dùng
              của gia súc, thậm chí phải dùng sức người  trực tiếp của dân cư.
              để  cuốc;  nơi  quá  sâu  thì  phải  cày  “chui”,   Rau mầu ở Hà Đông rất phong phú, mùa

              cày dầm, tức là cày mà không nhìn rõ luống  nào thức ấy. Vùng ven Đáy là cà pháo, các
              cày, đường cày vì nước ngập cao. Hầu hết  loại khoai, đậu, bầu bí, rau ngót, rau đay, các
              chỉ cày qua một lần, bừa, rồi cấy. Phân bón  loại rau thơm... Vùng trũng ven sông Nhuệ
              chưa  được  sử  dụng,  cũng  không  làm  cỏ.  có nhiều rau cần, rau muống. Vụ rau màu
              Cây lúa mọc tự nhiên, phụ thuộc vào thời  đặc biệt phát triển ở Cầu Đơ, Hà Trì với các

              tiết và nước trời. Khi thu hoạch, người dân  loại rau, củ, quả như: bầu, cà bát, dưa bở, cà
              dùng liềm hoặc hái để gặt, bó thành từng  chua, đậu, rau cần, rau muống... các loại rau
              lượm, rồi từng bó lúa vài chục lượm; vác  mọc tự nhiên, thường gọi là rau dại cũng rất

              lên vai hoặc di chuyển bằng thuyền thúng  nhiều, như rau sam, dền cơm, bìm bìm, rau
              lên bờ, sau đó gánh về nhà bằng đòn gánh,  khúc,... Rau mầu có chất lượng tốt, lại gần
              đòn xóc. Kỹ thuật ra hạt chủ yếu là dùng  các cụm dân cư đông nên việc tiêu thụ cũng
              néo đập từng lượm lúa vào cối đá, thậm chí  khá thuận lợi. Câu ca ở địa bàn Kiến Hưng
              vò bằng chân. Thóc được phơi trên nong,  dường như đã phản ánh điều này:

              nia hoặc sân gạch; đảo bằng chân hoặc bồ            “Bầu già, cà đỏ đít, mướp xơ
              cào, bàn trang. Trong quá trình đó, người           Đem ra chợ Xốm mà vơ lấy tiền”.
              dân rê thóc bằng cách cho thóc vào thúng            Cây ăn quả cũng khá phong phú, nhất là

              nhòi, kẹp vào nách đổ dần xuống để mượn  muỗm, bưởi, quất hồng bì, táo, hồng xiêm,
              sức gió hoặc dùng một loại quạt to thổi bay  thị,...  dù  không  thành  vùng  chuyên  canh
              rơm và thóc kẹ. Thóc đạt chất lượng, khô  với giá trị lớn, nhưng là sản phẩm luôn xuất
              sẽ được tích trữ trong cót hoặc hòm gỗ, khi  hiện trong các chợ quê.
              dùng đem xay bằng cối xay, sau đó giã bằng          Trong cơ cấu vật nuôi thì trâu có ý nghĩa

              cối gạo (hầu hết là cối giã đạp chân) để dùng  đặc biệt quan trọng, là “đầu cơ nghiệp” của



              380       địa chí hà đông
   375   376   377   378   379   380   381   382   383   384   385