Page 379 - Địa chí Hà Đông
P. 379

LỊCH SỬ  PHẦN 2



                Ngoài  phát  triển  kinh  tế  nông  nghiệp  Hà Đông chủ yếu là ruộng cấy vào thu (thu
            và tiểu thủ công nghiệp, Hà Đông còn là  điền), phải đợi khi mưa tháng 5, tháng 6 khi

            địa bàn trực tiếp hoặc trung gian cung cấp  mưa xuống mới có nước để cày cấy. Một số
            lương thực, thực phẩm, các nhu cầu sinh  nơi thấp trũng, cứ đến tháng 3 âm lịch bắt
            hoạt hàng ngày cho thành phố Hà Nội. Hà  đầu mùa mưa, nước mưa đọng lại và nước

            Đông còn là cầu nối giao lưu kinh tế giữa  các  sông  ngòi  tràn  lên,  thành  đồng  nước
            Hà Nội và nhiều vùng của đất nước. Kinh  mênh mông, làng xóm dần trở thành những
            tế Hà Đông chủ yếu là buôn bán như buôn  ốc đảo, sóng nước vỗ ì oạp vào các rặng tre
            sơn,  lụa,  vải,  giấy  bản,  nón  lá,  mũ  đan,  cho đến tháng 9, tháng 10. Đợi khi nước rút,
            thừng chão, đồ gỗ chạm... những lò mổ ở  người dân nhổ cỏ lăn, cỏ lác, tiến hành cày

            Hà  Nội,  Hải  Phòng  thường  đến  mua  bò,  bừa rồi cấy lúa. Bởi vậy mà nhiều năm, khi
            lợn, trâu ở chợ Bằng, chợ Đơ...                  lúa mới đỏ đuôi bông thì nước đã lên, người
                10.1.1. Nông nghiệp truyền thống             dân phải mò vớt từng bông thóc, chấp nhận

                Nền  kinh  tế  nông  nghiệp  truyền  thống  cảnh “Hạt nổi cho chim, hạt chìm cho cá”.
            của Hà Đông mang đặc trưng nông nghiệp  Câu ngạn ngữ “Xanh nhà hơn già đồng” tự
            trồng  lúa  nước  vùng  đồng  bằng  Bắc  Bộ.  nhiên thành kinh nghiệm truyền từ đời này
            Phương thức sản xuất và sinh sống chủ yếu  sang đời khác.
            dựa vào nông nghiệp, lấy nông nghiệp làm             Dưới chế độ phong kiến, phần lớn những

            cốt lõi sinh tồn đã trở thành tập quán sinh  hộ ít ruộng đất hoặc không có ruộng đất ở
            sống,  thành  tư  tưởng,  ý  thức  và  tình  cảm  Hà  Đông  đều  luôn  trong  tình  trạng  thiếu
            ngấm  sâu  trong  tiềm  thức  của  người  dân  đói, nhất là vào những tháng giáp hạt. Trong

            Hà Đông. Nông nghiệp vừa là tất yếu sinh  những năm gặp nhiều thiên tai, hạn hán, bão
            tồn, nhưng cũng là ước mơ, khát vọng về  lụt hay giặc giã, binh đao, thì nạn đói diễn
            sự  giàu  có,  sung  túc  và  thịnh  vượng  của  ra rất phổ biến. Do đó, đồng thời với tập
            người dân nơi đây. Nghề nông nói chung,  quán coi trọng nông nghiệp và tư tưởng “dĩ
            trồng trọt cây lương thực nói riêng xuất hiện  nông vi bản”, trong nền kinh tế xã hội nông

            ở Hà Đông từ rất sớm, cùng với những cư  nghiệp truyền thống cũng luôn nảy sinh tư
            dân  đầu  tiên  đến  lập  nghiệp  tại  vùng  đất  tưởng “tích cốc phòng cơ” và tập quán tiết
            này.  Đồng  ruộng  các  làng  xã  ở  Hà  Đông  kiệm tiêu dùng theo kiểu “ăn dè hà tiện”. Tư

            có độ chênh theo hướng Tây Bắc - Đông  tưởng và tập quán này trở thành lối sống của
            Nam.  Dưới  chế  độ  thực  dân  phong  kiến,  đông đảo dân cư, thậm chí còn được đề cao
            đồng ruộng lại không có công trình thủy lợi  như một phạm trù đạo đức, một cách thức
            phục vụ nông dân sản xuất. Năm cấy một  để duy trì và ổn định đời sống.
            vụ, phụ thuộc vào mưa, nắng của trời nên            Các giống lúa cổ truyền được cư dân nông

            nông nghiệp gặp nhiều khó khăn. Ruộng ở  nghiệp Hà Đông  đưa vào canh tác thường




                                                                            địa chí hà đông          379
   374   375   376   377   378   379   380   381   382   383   384