Page 203 - Địa chí Hà Đông
P. 203

LỊCH SỬ  PHẦN 2



            nghiệp và đời sống, diện tích canh tác được         Phong  trào  đấu  tranh  của  nhân  dân  ta
            mở  rộng  nhờ  khai  hoang,  các  công  trình  chống Bắc thuộc, giành độc lập dân tộc và

            thủy lợi được xây dựng, năng suất và sản  bảo vệ văn hóa dân tộc diễn ra sôi nổi. Điển
            lượng lúa tăng hơn trước. Thủ công nghiệp  hình là các cuộc khởi nghĩa dưới sự lãnh đạo
            phát triển nghề rèn sắt, đẩy mạnh khai thác  của Hai Bà Trưng (40-43), Khu Liên (190-

            vàng, bạc, châu ngọc, làm các đồ trang sức  193), Bà Triệu (248), Lý Bí (542-603), Mai
            bằng vàng, bạc, ngọc rất tinh tế, xuất hiện  Thúc  Loan  (713-722),  Phùng  Hưng  (766-
            nghề  mới  như  làm  giấy,  thủy  tinh,  đường  791), Khúc Thừa Dụ dựng nền tự chủ (905),
            mật... Giao thông đường thủy, bộ nối liền  Dương Đình Nghệ bảo vệ nền tự chủ (930).
            các châu, quận, huyện được hình thành phục  Chiến  thắng  Bạch  Đằng  của  Ngô  Quyền

            vụ cho sự cai trị và buôn bán.                   năm 938 đã chấm dứt hoàn toàn hơn 1.000
                Quan hệ xã hội bao trùm trong suốt thời  năm Bắc thuộc ở nước ta.
            Bắc thuộc ở nước ta là quan hệ giữa chính           6.1.2. Vùng đất Hà Đông thời kỳ Bắc thuộc

            quyền đô hộ ngoại tộc và toàn thể nhân dân          Trong thời Bắc thuộc, Giao Chỉ là một
            ta. Người Hán ở nước ta ngày càng nhiều,  quận lớn, quận trung tâm và quan trọng nhất
            lâu  dần  thành  người  Việt  gốc  Hán.  Tầng  của chính quyền phong kiến Trung Quốc ở
            lớp hào trưởng người Việt vẫn giữ vai trò  nước ta. Sách Tiền Hán thư, phần Địa lý chí
            quan trọng ở địa phương và có uy tín trong  ghi nhận quận Giao Chỉ thời Hán gồm 10

            dân Việt, họ liên tục lãnh đạo nhân dân đấu  huyện:  Liên  Lâu, An  Định,  Câu  Lậu,  Mê
            tranh  giành  độc  lập  dân  tộc.  Xã  hội  hình  Linh, Khúc Dương, Bắc Đái, Kê Từ, Tây
            thành tầng lớp địa chủ ít nhiều có thế lực  Vu, Long Biên và Chu Diên. Học giả Đào

            ở địa phương thuộc nhiều nguồn gốc và xu  Duy Anh qua khảo cứu sách Thủy kinh chú
            hướng chính trị khác nhau. Đại bộ phận cư  (đoạn nói về sông Diệp Du, tức sông Hồng),
            dân  vẫn  là  nông  dân  sống  trong  các  làng  sách Thủy kinh chú đồ, Thái Bình hoàn vũ
            xã cổ truyền mang tính tự trị. Một bộ phận  ký; đồng thời dựa vào công trình nghiên cứu
            khác phải lĩnh canh nộp tô hoặc biến thành  về địa lí học lịch sử Sử học bi khảo cuối thế

            nông nô của quan lại, hào trưởng.                kỷ XIX của Đặng Xuân Bảng và công trình
                Về văn hóa, nhân dân ta tiếp nhận và Việt  Le Tonkin ancien (Xứ Bắc Kỳ cổ) năm 1937
            hóa những yếu tố tích cực của văn hóa Trung  của tác giả người Pháp C.L.Madrolle đã xác

            Hoa như ngôn ngữ, văn tự. Nho giáo, Phật  định vị trí huyện Chu Diên: “Có thể tương
            giáo, Đạo giáo được truyền vào nước ta. Trí  đương với một phần tỉnh Hà Tây và miền
            thức Hán mở trường dạy học. Tuy nhiên, văn  Hà Nam ở giữa sông Đáy và sông Hồng” .
                                                                                                        1
            hóa  Hán  chỉ  ảnh  hưởng  ở  vùng  trung  tâm  Đối chiếu với bản đồ ngày nay, có thể xác
            châu, quận, huyện. Làng xã vẫn là nơi bảo

            tồn văn hóa truyền thống của người Việt.         1   Đào Duy Anh, Đất nước Việt Nam qua các đời,
                                                                Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 2010, tr.47



                                                                            địa chí hà đông          203
   198   199   200   201   202   203   204   205   206   207   208