Page 209 - Địa chí Hà Đông
P. 209
LỊCH SỬ PHẦN 2
Đức 23 (1870) cho biết: Đỗ Cảnh Thạc càng lớn mạnh, lần lượt đánh dẹp được các
người đất Quảng Lăng (Trung Quốc). Lớn sứ quân khác. Đối với sứ quân Đỗ Cảnh
lên, Cảnh Thạc theo Trường Đường tiên Thạc, Đinh Bộ Lĩnh tập trung lực lượng
sinh, văn võ đều giỏi, sau theo phò Ngô chia thành 4 mũi do các tướng Đinh Điền,
vương Quyền. Tới khi Ngô chúa mất đi Nguyễn Bặc, Lê Hoàn chỉ huy tấn công
thì cắt phần đất đai hùng cứ một phương. căn cứ Đỗ Động. Đỗ Cảnh Thạc chạy lên
Cảnh Thạc tới trang Liệp Hạ (Quốc Oai, phía Bắc và mất ở chân núi Đồng Lĩnh,
Hà Nội), thấy bến sông Động phía tây phủ Lạng Giang . Năm 968, Đinh Bộ Lĩnh
2
trang Liệp Hạ có trại Quèn, núi xa phía hoàn thành thống nhất đất nước, lập nên
sau, sông lượn phía trước, thế đất như triều Đinh.
rồng hổ bao quanh, liền hạ lệnh đắp thành Đinh Bộ Lĩnh xưng đế, đóng đô ở Hoa
tại đó, và lấy họ mình đặt tên cho sông là Lư (Ninh Bình), đặt tên nước là Đại Cồ Việt.
Đỗ Động. Phàm đất huyện Ninh Sơn từ Năm 979, Đinh Tiên Hoàng bị sát hại, vua
trại Quèn tới Thiên Phúc, Thụy Khê và tới kế nghiệp là Đinh Toàn 6 tuổi, nhà Tống
Bảo Đà (Bình Đà, Thanh Oai) khắp nơi chuẩn bị xâm lược nước ta. Theo đề nghị
lập 2 hành cung, đóng thuyền tích lương của Phạm Cự Lạng và nhiều tướng khác,
ngày đêm luyện quân tại thành Quèn, Thái hậu Dương Vân Nga sai người lấy áo
chiêu mộ dân thành Quèn, khuyến khích long cổn khoác lên mình Thập đạo tướng
việc nông ngư, giáo dục lễ nghĩa, nhân quân Lê Hoàn và chính thức mời Lê Hoàn
dân bốn phương quanh vùng đều hâm mộ, lên làm vua (980) để có điều kiện thuận lợi
tám chín năm ròng thường nghe thấy tiếng lãnh đạo cuộc kháng chiến. Nhà Tiền Lê
ca tụng: “Nam quốc sơn hà Nam đế trị; được thành lập và nhanh chóng lãnh đạo
Bắc phương thổ vũ Bắc nhân cư” . Hiện nhân dân cả nước kháng chiến chống quân
1
nay, trên địa bàn Thanh Oai còn lưu nhiều Tống xâm lược năm 981 thắng lợi, bảo vệ
truyền thuyết, dấu tích về hoạt động của vững chắc độc lập dân tộc.
xứ quân Đỗ Cảnh Thạc, như cây Trôi cổ Các triều Đinh (968-980) và Tiền Lê
thụ ở làng Bình Đà, thành cổ ở Bình Đà, (981-1009) xây dựng nhà nước quân chủ
giếng Ngọc, gò Cấn, gò Vua ở Đỗ Động... sơ khai. Nhà Đinh chia cả nước làm 10
Vốn là địa bàn thuộc Thanh Oai trước đạo (Hà Đông ngày nay thuộc đạo Quốc
đây, vùng đất Hà Đông hẳn có chuyện ảnh Oai) . Nhà Tiền Lê đổi 10 đạo làm lộ, phủ,
3
hưởng bởi các sự kiện lịch sử trên.
Khi đó, ở đất Hoa Lư (Ninh Bình) có 2 Đỗ Văn Ninh: Thành Quèn, căn cứ của Đỗ
Đinh Bộ Lĩnh cũng nổi lên, thế lực ngày Cảnh Thạc một trong 12 sứ quân hồi thế kỷ X.
Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, 1970.
1 Đặng Văn Tu, Nguyễn Tá Nhí (đồng chủ biên), 3 Đặng Văn Tu, Nguyễn Tá Nhí (đồng chủ biên),
Địa chí Hà Tây, Sđd, tr.222 - 223 Địa chí Hà Tây, Sđd, tr.223
địa chí hà đông 209