Page 535 - Địa chí Hà Đông
P. 535
VĂN HÓA - XÃ HỘI PHẦN 4
tỏ lòng biết ơn ông bà, bố mẹ hay những nhân, viên chức, dù có sổ gạo thì việc ăn độn
bậc lớn tuổi đã cho mình cái ăn, cái mặc. với bo bo, mì sợi, sắn khô cũng khá thường
Người lớn thường chờ con cháu tề tựu đông xuyên; người gần quê thì mỗi dịp về quê
đủ thì mới muốn ngồi vào mâm. Trẻ em là sẽ mang lên con vịt, mớ cá, tải khoai; cũng
đối tượng được ưu tiên hàng đầu trong bữa không hiếm trường hợp khi ở quê mất mùa
cơm gia đình. Những miếng ngon nhất, cơm thì phải chắt chiu vài cân “gạo mậu” mang
dẻo canh ngọt đều được dành cho những hỗ trợ người thân ở quê. Trong bữa ăn, thức
thành viên bé tuổi nhất nhà, thể hiện sự yêu ăn có ít nên càng tốn cơm. Mâm cơm gia
thương, bao bọc, che chở của các thành viên đình có khi tới hàng chục người, đơn giản
trong gia đình. Mỗi bữa cơm là mỗi lúc tình đến mức kham khổ, người ngồi ở vị trí “đầu
gia đình thêm ấm cúng, là lúc các thành viên nồi” thường là bà mẹ, con gái lớn hoặc con
trong gia đình quan tâm, chăm sóc lẫn nhau. dâu cả, không ngừng xới cơm, chẳng mấy
Thời trước, các gia đình khá giả, các mà sạch nồi, song quây quần bên mâm cơm
gia đình có đông thợ đến làm thì trong bữa vẫn là sự chan hòa, nhường nhịn, đầm ấm.
cơm cũng có sự phân biệt nam nữ, thứ bậc. Bữa ăn thường bao gồm ba bữa sáng,
Các cụ ông, con trai ăn trên nhà, ngồi trên trưa, tối, nhưng bữa trưa và tối là hai bữa
phản, sập; trong bữa cơm thường ngày vẫn chính. Cơm trắng được nấu từ gạo tẻ là thành
có chén rượu để nhâm nhi với món nhắm; phần chính trong các bữa ăn. Trước đây cơm
người làm, đàn bà, trẻ nhỏ ăn dưới nhà thường nấu trong nồi đất, nồi đồng, xoong
ngang, thường là cơm rau và thậm chí là ăn gang, đun bằng củi hoặc bằng rơm; sôi trào
sau “mâm trên”. Từ sau Cách mạng tháng vung thì ủ trong tro bếp, thêm nắm rơm, ít
Tám năm 1945, tình trạng này dần được trấu để giữ nhiệt. Tùy theo điều kiện của
xoá bỏ. Cả nhà, các thế hệ cùng ngồi ăn trên mỗi gia đình, ngoài cơm sẽ có thêm các loại
chiếu trải ở trong nhà hay đầu hè; hoặc ngồi rau, củ, quả và các loại cá, thịt. Bữa cơm
trên chõng tre; đơn giản hơn thì mâm cơm xưa do điều kiện còn nhiều khó khăn nên
đặt dưới đất, mọi người ngồi trên chiếu, thường không sử dụng nhiều thịt, chỉ những
những chiếc ghế con hoặc mo cau, cái chổi dịp giỗ tết, hội hè, đình đám mới có mâm
rơm đặt xung quanh mâm. Hiện nay, cuộc cỗ nhiều thịt. Hiện nay, đời sống có nhiều
sống sung túc hơn, nhiều gia đình đã ăn trên thay đổi, cơ cấu món ăn và chất lượng các
bàn ăn hoặc trên phản. bữa ăn cũng có nhiều cải thiện. Trong bữa
Thời bao cấp, kinh tế khó khăn, “cái cơm thường ngày, nếu không có thịt, phải
ăn” đã hiếm mà hầu hết các gia đình đều có cá hoặc tôm, cua và nhiều món ăn được
đông con, nên việc lo cho những bữa ăn rất chế biến khác. Cá là món ăn thông dụng, dễ
khó khăn, vất vả. Việc ăn độn là khá phổ kiếm ở các làng quê, các chợ Hà Đông xưa,
biến, nhất là vào kỳ giáp hạt. Gia đình công lại dễ ăn và không quá nhiều chất đạm. Cá
địa chí hà đông 535